KHẢO SÁT HUYẾT THANH HỌC KHÁNG THỂ KHÁNG LEPTOSPIRA LƯU HÀNH TRONG CỘNG ĐỒNG DÂN CƯ TẠI MỘT SỐ HUYỆN CỦA TỈNH HÀ GIANG VÀ CAO BẰNG

Lê Thị Lan Anh1, ZH.A KASYAN2, I.N SHAROVA2, Nguyễn Ngọc Tân1, Lê Văn Quang1
1 Viện Y sinh Nhiệt đới, Trung tâm Nhiệt đới Việt - Nga
2 Viện Nghiên cứu phòng chống dịch hạch Microb, Rosportrebnadzor

Nội dung chính của bài viết

Tóm tắt

Leptospirosis is a zoonotic disease caused by the spirochete Leptospira. The disease is present in most countries but is more common in tropical and subtropical regions. Symptoms of Leptospira infection are similar to those of fever caused by Rickettsia, scrub typhus, and malaria. People who work in agricultural fields often have a higher rate of exposure to Leptospira than others. In this study, 200 healthy individuals living in Ha Giang and Cao Bang provinces were interviewed, and blood samples were collected in 2022. Collected blood samples were separated by centrifugation and stored in liquid nitrogen until transferred to the laboratory for testing to detect anti-Leptospira IgG antibodies using the "Novalisa Leptospira IgG ELISA" kit.


The results indicated that 35 out of 200 individuals carried IgG antibodies against Leptospira, accounting for 17.5%. Among these, the positive rate in men was 25.9%, 1.8 times higher than in women (14.1%) with p<0.05p < 0.05. There were no statistically significant differences in the rate of anti-Leptospira IgG antibodies according to location and age.

Chi tiết bài viết

1. ĐẶT VẤN ĐỀ

Leptospirosis hay nhiễm xoắn khuẩn vàng da là bệnh truyền từ động vật sang người phổ biến trên toàn cầu, đặc biệt ở các nước có khí hậu nhiệt đới và cận nhiệt đới. Các nước thuộc khu vực Đông Nam Á và các nước đang phát triển có tỷ lệ lưu hành Leptospira cao. Theo thống kê, hàng năm trên thế giới có khoảng 1,3 triệu trường hợp nhiễm và 58.900 trường hợp tử vong do Leptospira [1]. Ở Việt Nam, những năm gần đây Leptospira gây ra thiệt hại đáng kể về mặt sức khỏe và kinh tế cho người dân. Việc chẩn đoán bệnh còn gặp nhiều khó khăn do triệu chứng của bệnh tương tự với các bệnh truyền nhiễm khác như sốt xuất huyết Dengue, sốt rét, sốt mò, hay viêm gan A, B,...

Tỷ lệ lưu hành Leptospira ở một số nước trên thế giới ước tính có thể lên đến hơn 30%, tỷ lệ tử vong khoảng 5%-20% [2]. Việc lây nhiễm Leptospira sang người chủ yếu xảy ra khi người tiếp xúc trực tiếp với môi trường ô nhiễm chứa Leptospira hoặc gián tiếp qua việc tiêu thụ thực phẩm nhiễm bẩn. Theo báo cáo, các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam có tỷ lệ lưu hành bệnh cao, tuy nhiên nghiên cứu và công trình về Leptospira tại Việt Nam còn ít, số liệu còn rời rạc [3].

Kết quả giám sát của Trạm chăn nuôi và thú y huyện Quảng Uyên, tỉnh Cao Bằng cho thấy, ở khu vực Bắc, Trung và Nam của Việt Nam, năm 2019 cho thấy 9,5% huyết thanh người xét nghiệm có kháng thể với Leptospira. Leptospira chủ yếu gây bệnh trên động vật nghề nghiệp ở khu vực Bắc Trung Bộ, bao gồm các tỉnh như Cao Bằng, Hà Giang và các tỉnh lân cận. Nhằm điều tra tỷ lệ lưu hành xoắn khuẩn Leptospira trên người và động vật, cũng như xác định yếu tố nguy cơ liên quan đến sự xuất hiện của tác nhân gây bệnh, nghiên cứu “Điều tra tỷ lệ nhiễm xoắn khuẩn Leptospira trên người và động vật tại tỉnh Cao Bằng, Hà Giang” được thực hiện. Đây là bước đầu để làm cơ sở dữ liệu cho các nghiên cứu bệnh học và dịch tễ học của Leptospira sau này.

Qua khảo sát một số huyện trên địa bàn tỉnh Cao Bằng, đã thu thập số liệu dịch tễ và yếu tố nguy cơ liên quan đến Leptospira từ 4 huyện của tỉnh Cao Bằng. Kết quả khảo sát, thu thập và phân tích mẫu máu phát hiện thấy 18% mẫu dương tính với Leptospira bằng Real-time PCR. Sử dụng phần mềm định vị vệ tinh và công nghệ GIS, các mẫu nhiễm Leptospira chủ yếu phân bố ở các huyện Hạ Lang, Trùng Khánh, Thông Nông, tỉnh Cao Bằng và thấy 18% dương tính mẫu máu. Nhằm hoàn thiện cơ sở dữ liệu nghiên cứu về Leptospira tại địa phương, nghiên cứu này tiến hành thu thập mẫu máu tại Cao Bằng, Hà Giang để làm rõ nguy cơ và khả năng liên quan của bệnh Leptospira trên các đối tượng nguy cơ cao và các yếu tố nguy cơ nhiễm Leptospira tại Cao Bằng là cơ sở cho các nghiên cứu tiếp theo về bệnh Leptospira tại Việt Nam.

2. ĐỐI TƯỢNG, VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1. Đối tượng, vật liệu nghiên cứu

200 mẫu huyết thanh người tình nguyện cho máu tại Cao Bằng và Hà Giang trong đó có 50 mẫu thu thập tại xã Thị Hoa, huyện Hạ Lang, tỉnh Cao Bằng, 50 mẫu

Thu thập tại xã Thị Hoa, huyện Hạ Lang, tỉnh Cao Bằng, 50 mẫu thu thập tại xã Tà Lùng, huyện Phục Hòa, tỉnh Cao Bằng, 50 mẫu thu thập tại xã Vĩnh Quang, huyện Hoàng Su Phì, tỉnh Hà Giang và 50 mẫu thu thập tại xã Thanh Đức, huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang.

2.2. Hóa chất, thiết bị sử dụng trong nghiên cứu

Bộ sinh phẩm ELISA phát hiện kháng thể IgG kháng Leptospira (Leptospira IgG Novalisa Kit, NovaTec, Germany, Đức). Máy đọc ELISA (Spectra max 3.0, Mỹ), Máy li tâm máu (Labnet Spectrafuge 6C centrifuge, Mexico), tủ ấm (Sanyo incubator MIR-262, Nhật Bản).

2.3. Phương pháp nghiên cứu và kỹ thuật sử dụng: Phương pháp nghiên cứu cắt ngang mô tả

2.3.1. Phương pháp thu thập và xử lý mẫu máu

- Thu thập mẫu: Mẫu nghiên cứu được lựa chọn theo phương pháp chọn mẫu không xác suất, lựa chọn đối tượng nghiên cứu có chủ đích và không tính cỡ mẫu. Mỗi tỉnh lựa chọn 2 huyện, mỗi huyện chọn 50 cá thể (mẫu). Các mẫu lựa chọn chủ yếu là những cá thể có nguy cơ cao như người nuôi động vật hoặc làm nghề có nguy cơ nhiễm từ động vật sang người qua độ phơi nhiễm từ động vật hoặc các điều kiện vệ sinh.

- Xử lý mẫu: Máu được thu thập vào ống nghiệm có chất chống đông, bảo quản trong tủ lạnh tại cơ sở nghiên cứu, sau đó phân tích định tính, định lượng bằng phương pháp ELISA để xác định kháng thể với Leptospira. Thời gian bảo quản tối đa trong điều kiện tủ lạnh là 24 giờ (nếu không cần bảo quản lâu hơn).

2.3.2. Kỹ thuật xét nghiệm phát hiện kháng thể IgG kháng Leptospira bằng ELISA

Nghiên cứu sử dụng bộ sinh phẩm ELISA phát hiện kháng thể IgG kháng Leptospira (Leptospira IgG Novalisa Kit, NovaTec, Germany, Đức) để phát hiện kháng thể IgG kháng Leptospira. Quy trình được thực hiện theo hướng dẫn của nhà sản xuất. Theo công bố của nhà sản xuất, bộ sinh phẩm Novalisa IgG Leptospira ELISA có độ nhạy > 98% và độ đặc hiệu là 97,4%. Thí nghiệm được lặp lại hai lần, giá trị đo được tính bằng giá trị trung bình giữa hai lần lặp lại.

2.3.3. Phương pháp xử lý số liệu thống kê

Số liệu được phân tích bằng phần mềm xử lý số liệu SPSS, version 20. Ý nghĩa thống kê được xác định dựa trên kiểm định chi-square. Giá trị P < 0,05 được cho là khác nhau có ý nghĩa thống kê.

2.3.4. Đạo đức trong nghiên cứu

Nghiên cứu này đã được Hội đồng đạo đức Trung tâm Nhiệt đới Việt - Nga chấp thuận với mã số 43/2022/VREC tại văn bản số: 1261/CN-HDDD ngày 05/5/2022.

3. KẾT QUẢ

3.1. Khảo sát tỷ lệ kháng thể kháng Leptospira trong cộng đồng dân cư tại Hà Giang và Cao Bằng

Bảng 1. Kết quả khảo sát tỷ lệ người khỏe mạnh mang kháng thể IgG kháng Leptospira theo địa điểm

Địa điểmMẫu xét nghiệm (n)Dương tính (n, %)Âm tính (n, %)Nghi ngờ (n, %)P (1;2) *
Cao Bằng (1)10016 (16%)81 (81%)3 (3%)P > 0,05
Hà Giang (2)10019 (19%)78 (78%)3 (3%)
Tổng20035 (17,5%)159 (78,5%)6 (3%) 

Chú thích: Giá trị thống kê được tính toán sau khi loại trừ 08 mẫu nghi ngờ.

Kết quả cho thấy tỷ lệ người mang kháng thể IgG kháng Leptospira ở 2 tỉnh khảo sát là: Cao Bằng (16%) và Hà Giang (19%) với P > 0,05. Sự sai lệch này không có ý nghĩa thống kê giữa 2 địa phương, độ tin cậy 95%.

3.2. Khảo sát tỷ lệ kháng thể kháng Leptospira trong cộng đồng dân cư theo lứa tuổi

Tổng số mẫu nghi ngờ ELISA cho thấy tỷ lệ nhiễm kháng thể kháng IgG Leptospira theo nhóm tuổi 18-30 là 1,5% (3/200), 31-50 là 15% (30/200), trên 50 là 1% (2/200). Nhóm tuổi từ 31-50 có tỷ lệ cao nhất.

Với kết quả này, nhóm tuổi từ 31-50 có nguy cơ phơi nhiễm cao nhất do môi trường sống và tiếp xúc với động vật gây nhiễm trong cộng đồng khảo sát.

Bảng 2. Kết quả khảo sát tỷ lệ người khỏe mạnh mang kháng thể IgG kháng Leptospira theo độ tuổi

Độ tuổiMẫu xét nghiệm (n)Dương tính (n, %)Âm tính (n, %)Nghi ngờ (n, %)P (1,2,3)* 
18-30 (1)173 (17,6%)14 (82,4%)0 (0%)P > 0,05 
31-60 (2)15026 (17,3%)116 (77,3%)8 (5,3%) 
Trên 60 (3)336 (18,2%)27 (81,8%)0 (0%) 
Tổng20035 (17,5%)157 (78,5%)8 (4,0%) 

Ghi chú: Giá trị thống kê được tính toán sau khi loại trừ 08 mẫu nghi ngờ.

Kết quả bảng trên cho thấy:

Tỷ lệ người khỏe mạnh mang kháng thể IgG kháng Leptospira theo nhóm tuổi 18-30 tuổi, 31-60 tuổi và trên 60 tuổi lần lượt là 17,6% (3/17), 17,3% (26/150) và 18,2% (6/33) (Bảng 2). Kết quả cho thấy không có mối tương quan giữa tỷ lệ người mang kháng thể IgG kháng Leptospira với độ tuổi (P > 0,05). Điều này có thể do tác động khác nhau của môi trường sống.

3.3. Khảo sát tỷ lệ kháng thể kháng Leptospira trong cộng đồng dân cư theo giới tính

Bảng 3. Kết quả khảo sát tỷ lệ người khỏe mạnh mang kháng thể IgG kháng Leptospira theo giới tính

Giới tínhMẫu xét nghiệm (n)Dương tính (n, %)Âm tính (n, %)Nghi ngờ (n, %)P (1;2)*
Nữ (1)14229 (20,4%)113 (79,6%)0 (0%)P = 0,04
Nam (2)586 (10,3%)44 (75,9%)8 (13,8%)
Tổng20035 (17,5%)157 (78,5%)8 (4,0%) 

Ghi chú: Giá trị thống kê được tính toán sau khi loại trừ 08 mẫu nghi ngờ.

Kết quả bảng trên cho thấy:

Trong số 200 mẫu huyết thanh nghiên cứu, 142 mẫu là nữ giới, chiếm tỷ lệ 71% và 58 mẫu là nam giới, chiếm 29%. Tỷ lệ dương tính và âm tính nghi ngờ giữa các nhóm giới tính là có khác biệt (P = 0,04), chứng tỏ nam giới có tỷ lệ nghi ngờ cao hơn nữ giới do tiếp xúc với động vật hoặc môi trường nhiễm khuẩn.

làm việc xa hoặc lên nương làm rẫy rất sớm do vậy phản lớn đối tượng tham gia nghiên cứu là nữ giới. Tuy nhiên, kết quả thống kê tỷ lệ huyết thanh dương tính với kháng thể IgG kháng Leptospira theo giới tính cho thấy nam giới có tỷ lệ huyết thanh dương tính là 25,9 (15/58) cao hơn nữ giới với tỷ lệ 15,1% (17/112), với giá trị P = 0,14 (Bảng 3). Điều này cho thấy sự khác biệt này là do phơi nhiễm khác nhau, do phong tục tập quán, sinh cảnh và việc tiếp xúc với các loài động vật giảm nhàn vá các hoạt động ngoài nội địa của khác; Để chứng minh vai trò hiệu quả việc đó và nguy cơ cần phải có nghiên cứu mở rộng hơn kích thước mẫu lớn hơn và điều tra các yếu tố liên quan tới mức độ phơi nhiễm của mỗi khu vực.

3.4. Khảo sát tỷ lệ kháng thể kháng Leptospira trong cộng đồng dân cư theo nghề nghiệp

Tiếp xúc với động vật hoặc nguồn nước mang mầm bệnh là một trong những nguyên nhân gây ra nhiễm Leptospira ở người. Trong nghiên cứu này, đã khảo sát mối liên hệ giữa nghề nghiệp và tỷ lệ dương tính với kháng thể IgG kháng Leptospira. Trong tổng số mẫu thu thập, người dân thuộc địa bàn các huyện vùng núi tỉnh Cao Bằng được phân thành 6 nhóm và được chọn lựa ngẫu nhiên từ các cộng đồng dân cư khác nhau bao gồm (những người công chức, viên chức nhà nước, nông dân, học sinh), lợn trại, (lợn nhà) và nhóm cán bộ, viên chức nhà nước (cán bộ y tế) cùng một số nhóm ngành như thủ công (nông nghiệp như công chức nhà nước). Các tỷ lệ kháng (xem bảng 4).

Bảng 4. Tỷ lệ mang kháng thể IgG kháng Leptospira theo nhóm nghề nghiệp

Nhóm nghề nghiệpMẫu xét nghiệm (n)Dương tính (n, %)Âm tính (n, %)Nghi ngờ (n, %)P* 
Nhân viên văn phòng (1)110 (0%)11 (100%)0 (0%)P = 0,05 
Trường học (Giáo viên) (2)116 (66,7%)5 (45,7%)0 (0%) 
Hưu trí (3)1510 (55,5%)12 (80,7%)0 
Nông dân (4)7724 (12%)63,20% 0.05

4. THẢO LUẬN

Theo kết quả nghiên cứu của chúng tôi năm 2021 về giám sát tỷ lệ nhiễm Leptospira trên quần thể động vật gặm nhấm tại các huyện Vị Xuyên, Quản Bạ, Mèo Vạc tỉnh Hà Giang và các huyện Trùng Khánh, Thông Nông, tỉnh Cao Bằng cho thấy 18% (24/133 cá thể) dương tính với Leptospira bằng Real-time PCR, trong đó ở 2 mẫu máu tại tỉnh Cao Bằng và 22/24 mẫu tại tỉnh Hà Giang. Nghiên cứu này đã chỉ ra sự lưu hành của xoắn khuẩn Leptospira trên quần thể động vật gặm nhấm thu thập tại 4 huyện của tỉnh Hà Giang và 2 huyện của tỉnh Cao Bằng, trong đó chủ yếu ở tại Hà Giang. Con số này chứng tỏ tỷ lệ nhiễm Leptospira có sự chênh lệch giữa hai tỉnh Cao Bằng và Hà Giang về khu vực dịch tễ học nhiễm Leptospira. Trong nghiên cứu lần này, kết quả giám sát đã chỉ ra sự lưu hành xoắn khuẩn Leptospira tại các huyện Vị Xuyên và Quản Bạ, tỉnh Hà Giang và huyện Hạ Lang, huyện Phục Hòa, tỉnh Cao Bằng thông qua tỷ lệ dương tính với kháng thể IgG kháng Leptospira bằng ELISA. Kết quả thực hiện ELISA cho thấy tỷ lệ người mang kháng thể IgG kháng Leptospira tại Hà Giang và Cao Bằng tương ứng là 17,5%, trong đó tại Hà Giang là 19%, tại Cao Bằng là 16%.

Kết quả khảo sát tỷ lệ lưu hành bệnh Leptospira trên người khỏe mạnh tại huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội, năm 2015 cho thấy tỷ lệ người có kháng thể kháng Leptospira được công bố là 24% (48/200 bằng ELISA, cao hơn kết quả nghiên cứu lần này. Trong nghiên cứu thực hiện xét nghiệm Leptospira bằng MAT trên 600 người khỏe mạnh thu thập tại 3 tỉnh đại diện cho 3 vùng Bắc, Trung và Nam của Việt Nam năm 2018, tỷ lệ người có kháng thể kháng Leptospira lần lượt là 9,5% (33/200 mẫu máu tỉnh), cho thấy tỷ lệ nhiễm Leptospira trung bình là 9,5%, trong đó tỷ lệ cao nhất là tại Thái Bình, Hà Tĩnh và Cần Thơ từ tỉnh đại diện. Các nghiên cứu tại một số tỉnh khác ở miền Nam Việt Nam cũng chỉ ra tỷ lệ mắc Leptospira dao động từ 11-14% trong giai đoạn 2018-2019 là 16,6% (253/2815). Khảo sát về nhiễm Leptospira tại nhóm động vật gặm nhấm tại miền Nam Việt Nam cho thấy tỷ lệ dương tính với kháng thể IgG kháng Leptospira là 12,8% (123/961 mẫu).

Nghiên cứu của Douadi Benacer và cộng sự năm 2016 khi thống kê tỷ lệ dương tính với kháng thể IgG kháng Leptospira cho thấy tỷ lệ nhiễm giới cao hơn nữ giới (do tỷ lệ nữ giới tiếp xúc nhiều hơn động vật). Điều này chỉ ra rằng giới tính, lứa tuổi cũng có thể là các yếu tố nguy cơ. Trong nghiên cứu lần này, khảo sát tỷ lệ nhiễm Leptospira dựa vào kết quả xét nghiệm ELISA cho thấy tỷ lệ người có kháng thể kháng Leptospira bằng ELISA đạt 17,5%. Điều này chứng minh rằng tỷ lệ người tiếp xúc với Leptospira tại vùng nghiên cứu có sự khác biệt so với các khu vực khác trong nước.

Leptospira ở nam giới cao hơn ở nữ giới. Trong nghiên cứu này, kết quả phân tích theo các nhóm nghề nghiệp cho thấy cán bộ y tế có tỷ lệ dương tính với IgG kháng Leptospira cao nhất chiếm 80% (4/5), tiếp đến là nhóm lao động tự do 17,9% (7/39), nông dân 16,2% (21/129), nhân viên văn phòng 16,7% (2/12) và nhóm trường học 19,0% (11/19) với P<0,05. Cán bộ y tế có tỷ lệ dương tính cao hơn nhóm lao động khác có thể do họ thường xuyên tiếp xúc với bệnh nhân và động vật, môi trường vệ sinh thấp đặc biệt khi phơi nhiễm tại địa bàn canh gác hoặc điều trị các trường hợp có nguy cơ tham gia các công việc liên quan đến nông nghiệp khi lên nương làm rẫy, chăm nuôi đầy công cụ để tỷ lệ nhiễm xoắn khuẩn nhiễm Leptospira. Theo nghiên cứu của Nguyễn Xuân Kiên và cộng sự cho thấy có mối tương quan giữa tỷ lệ người có dương tính kháng thể kháng Leptospira và nhóm lao động tự do cao 6,2% (10/162), tiếp đến là nhóm Leptospira tự nhiên 7,8% (7/82) và nhóm nông dân 12,8% (8/62). Kết quả này cũng tương tự với tỷ lệ nhiễm Leptospira được nghiên cứu tại miền Hà Giang và Cao Bằng năm 2021 là 18% (5), đặc biệt cho thấy cán bộ mới trong số nhóm nghề nhân viên văn phòng phải thường xuyên nhịn động vật gần nhằm tại nơi làm việc và xung quanh nhà.

Kết quả đánh giá tỷ lệ dương tính với IgG kháng Leptospira theo độ tuổi, địa điểm cho thấy không có tương quan. Kết quả tương tự hợp với khảo sát tỷ lệ dương tính với Leptospira tại một số vùng đại diện khu vực Bắc, Trung, Nam Việt Nam. Phân tích tỷ lệ Leptospira trong nhóm mang người cũng không khác. Trong 4 nhóm tác nhân chính đến động Do Cao được chỉ ra rằng các vùng miền trên cao. Nguyễn Xuân Kiên và Nguyễn Văn Chuyên, năm 2023 cho thấy kết quả khác với mức liên quan thấp so với nhóm nhóm nhân viên văn phòng tại địa điểm khác, các nhóm có liên quan được khảo sát cho thấy nguy cơ khác nhau. Tày phản ánh hiện tượng điều kiện thời tiết hoặc sinh hoạt vệ sinh, môi trường sống khác, môi trường các nhóm chủ yếu là Leptospira tự nhiên chính gây bệnh của nhóm dân địa bàn đó. 

5. KẾT LUẬN

Tỷ lệ dương tính với IgG kháng Leptospira trên người khỏe mạnh tại huyện Vị Xuyên, Hoàng Su Phì, tỉnh Hà Giang và huyện Hạ Lang, Phục Hòa, tỉnh Cao Bằng trung bình là 17,5% (35/200).

Tỷ lệ nhiễm kháng thể IgG kháng Leptospira ở nam giới và nữ giới lần lượt là 25,9% và 14,1%, trong đó nhóm nhân viên văn phòng có tỷ lệ cao gấp 1,8 lần nữ giới với P<0,05.

Chưa phát hiện có mối liên hệ giữa tỷ lệ có kháng thể IgG kháng Leptospira với độ tuổi và địa điểm nghiên cứu.


Tài liệu tham khảo

1. Costa F., Hagan J. E., Calcagno J., Kane M., Torgerson P., Martinez-Silveira M. S., Stein C., Abela-Ridder B., Ko A. I., Global morbidity and mortality of leptospirosis: A systematic review, PLOS Negl. Trop. Dis., 2015, 9(9):e0003898. DOI: 10.1371/journal.pntd.0003898.
2. Dung L. P., Hai P. T., Hoa L. M., Mai T. N. P., Hanh N. T. M., Than P. D., Tran V. D., Quyet N. T., Hai H., Ngoc D. B., Thu N. T., Mai L. T. P., A case-control study of agricultural and behavioral factors associated with leptospirosis in Vietnam, BMC Infect. Dis., 2022, 22:583. DOI: 10.1186/s12879-022-07561-6.
3. Van Dinh Tran, Le Thi Phuong Mai, Nguyen Thi Thu, Bui Kim Linh, Phan Dang Than, Nguyen Tu Quyet, Luu Phuong Dung, Tran Ngoc Phuong Mai, Nguyen Thi My Hanh, Hoang Hai, Tran Nhu Duong, Dang Duc Anh, Seroprevalence and serovar distribution of Leptospirosis among healthy people in Vietnam: Results from a multi-center study, Clin. Epidemiol. Glob. Health., 2021, 10:100700. DOI.org/10.1016/j.cegh.2021.100700.
4. Nguyễn Xuân Kiên, Nguyễn Văn Chuyên, Đặc điểm dịch tễ học, yếu tố nguy cơ nhiễm Leptospira tại một số địa bàn trọng điểm, Tạp chí Y học Việt Nam, tháng 5, S2-2023, 256:43-47. DOI: https://doi.org/10.51298/vmj.v526i2.5502.
5. Anh L. T. L., Balakirev A. E., Chau N. V., Investigation of multiple infections with zoonotic pathogens of rodents in northern Vietnam, J. Vector Borne Dis., 2021, 58(1):47-53. DOI: 10.4103/0972-9062.321750.
6. Trần Đắc Phu, Hướng dẫn lấy mẫu, đóng gói, bảo quản và vận chuyển mẫu bệnh phẩm bệnh truyền nhiễm, Cục Y tế Dự phòng, Bộ Y tế, 2017.
7. Ngũ Duy Nghĩa, Ngô Huy Tú, Phạm Thị Cẩm Hà, Lưu Nguyên Thắng, Phạm Đăng Quân, Lương Minh Hòa, Phạm Thanh Hải, Nguyễn Thùy Trâm, Hoàng Thị Thu Hà, Nguyễn Trần Hiển, Trần Như Dương, Tỷ lệ lưu hành bệnh leptospira và một số yếu tố liên quan tại huyện Thanh Trì thành phố Hà Nội năm 2015. Tạp chí Y học Dự phòng, 2017, Tập 27, số 8.
8. Nguyễn Thị Thu, Phạm Thanh Hải, Lương Minh Hòa, Đỗ Bích Ngọc, Phan Đăng Thân, Nguyễn Tự Quyết, Hoàng Đức Hạnh, Trần Văn Đình, Lê Thị Phương Mai, Tỷ lệ và chủng loại biến thể huyết thanh xoắn khuẩn vàng da lưu hành ở bệnh nhân tại một số bệnh viện thuộc 3 tỉnh tại Việt Nam năm 2018 - 2019, Tạp chí Y học Dự phòng, 2022, Tập 32, số 7, DOI: https://doi.org/10.51403/0868-2836/2022/840.
9. Thai K. T., Binh T. Q., Giao P. T., Phuong H. L., Hung Le Q., Van Nam N., Nga T. T., Goris M. G., De Vries P. J., Seroepidemiology of leptospirosis in southern Vietnamese children, Trop. Med. Int. Health., 2006, 11(5):738-745. DOI: 10.1111/j.1365-3156.2006.01619.x.
10. Benacer D., Thong K. L., Min N. C., Bin Verasahib K., Galloway R. L., Hartskeerl R. A., Souris M., Mohd Zain S. N., Epidemiology of human leptospirosis in Malaysia, 2004-2012, Acta Trop., 2016, 157:162-168. DOI: 10.1016/j.actatropica.2016.01.031.
11. J. Mohd Ridzuan, B. D. Aziah, and W. M. Zahiruddin, Work environment related risk factors for leptospirosis among plantation workers in tropical countries: Evidence from Malaysia, Int. J. Occup. Med. Environ., 2016, 7(3):156-163. DOI: 10.15171/ijoem.2016.699.